fbpx
Viện điện tử

Viêm gân

1. Đại cương.

– Viêm gân bám tận: khi gân của một cơ bám vào đầu xương thì có liên quan đến phần màng ngoài xương. Một số gân quanh vùng bám tận có một hay nhiều túi hoạt dịch. Các túi này có cấu trúc gần giống màng hoạt dịch khớp. Chúng có nhiệm vụ làm đệm, ngăn cách gân với nền xương và các gân khác xung quanh. Khi tổn thương ở phần màng ngoài xương thì gọi là viêm cốt mạc ngoài – gân. Khi tổn thương ở phần thanh dịch thì gọi là viêm túi thanh dịch. Thực tế lâm sàng khó phân biệt hai loại này nên gọi chung là viêm gân vùng bám tận.

– Viêm bao hoạt dịch gân (viêm bao gân): Một số gân dài khi đi qua một số vùng nào đó, nhất là khi đổi hướng, có một bao hoạt dịch bọc lấy đóng vai trò như một ròng rọc cố định đường đi của gân. Bao gân có cấu trúc giống như màng hoạt dịch, ở giữa có dịch nhầy. Khi bao bị tổn thương, sẽ làm cản trở hoạt động của gân.

– Hội chứng đường hầm và ngón tay lò xo: một số gân dài khi đi qua vùng hẹp của xương được bao bọc bởi một vòng xơ, tạo với nền xương ở dưới thành một đường hầm. Bên trong đường hầm được lót một bao hoạt dịch. Trong đương hầm có các gân, đôi khi có cả thần kinh và mạch máu đi qua. Khi bao hoạt dịch lót phía trong đường hầm bị viêm, làm bóp nghẹt các thành phần bên trong, gây hội chứng đường hầm. Đường hầm cổ tay gây chèn ép dây thần kinh giữa gây nên hội chứng đường hầm cổ tay. ở ngón tay gây cản trở sự co duỗi gân gấp, tạo nên hiện tượng ngón tay lò xo.

2. Nguyên nhân.

– Các bệnh ảnh hưởng đến bao hoạt dịch như: viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, rối loạn chuyển hóa.

– Thoái hóa tuổi già.

– Các chấn thương, vi chấn thương: là nguyên nhân hay gặp nhất. Các hoạt động quá mức kéo dài do nghề nghiệp, các chấn thương trực tiếp, co cơ quá mức, đột ngột, sai tư thế, các vi chấn thương… gây viêm không đặc hiệu hoặc thoái hóa.

3. Biểu hiện lâm sàng.

– Đau ở vị trí gân bị tổn thương, thường đau khu trú tại chỗ, ít lan xa, đau cả ngày và đêm, đau tăng khi cử động gân đó.

– Khám thấy: vùng tổn thương có thể đỏ và sưng nề nhưng ít gặp. ấn tại chỗ rất đau, làm các động tác co cơ chủ động của gân làm đau tăng lên. X quang không thấy có gì thay đổi.

4. Một số viêm gân hay gặp.

4.1. Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay (Hội chứng khuỷu tay Tennis).

– Lồi cầu ngoài xương cánh tay (còn gọi là mỏm trên lồi cầu) là chỗ bám nguyên uỷ của các gân cơ duỗi chung ngón tay, cơ trụ sau, cơ duỗi ngón út, cơ ngửa ngắn.

– Biểu hiện: đau ở mỏm lồi cầu ngoài; đau tăng khi xoay ngửa cẳng tay, gấp duỗi các ngón tay (đặc biệt là khi có lực cản) và khi ấn hay gõ nhẹ vào lồi cầu. Bên ngoài hoàn toàn bình thường ít khi có sưng đỏ.

-5%
10.990.000
Mua
-9%
Bán chạy

Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng

[Wonder MF508N] Máy vật lý trị liệu Wonder MF5-08N (New)

3.290.000
-6%

Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới

[MPT8-12] Máy vật lý trị liệu đa năng MPT8-12

3.490.000
Mua
BH 20 năm
Mua

– Nguyên nhân: thường gặp ở người vận động nhiều cẳng tay như làm nghề thủ công, chơi thể thao (tennis).

– Tiến triển: bệnh kéo dài một thời gian rồi tự khỏi, hay tái phát.

Viêm gân

4.2. Viêm bao gân vùng mỏm châm quay (bệnh De Quervain).

– Vùng mỏm châm quay có một bao hoạt dịch bọc chung hai gân của cơ dạng dài và dạng ngắn ngón tay cái.  

– Biểu hiện: sưng và đau bờ ngoài mỏm châm quay, đau tăng khi cử động ngón cái, nhất là động tác duỗi. Khám thấy vùng mỏm châm quay hơi nề, ấn vào đau, chống lại động tác duỗi ngón cái.

– Nguyên nhân: hay gặp ở phụ nữ hay làm việc bằng tay (giặt, xách, dệt, đan…).

4.3. Hội chứng đường hầm cổ tay (Hội chứng ống cổ tay).

– Vùng cổ tay phía trước có các gân gấp chung các ngón tay và gấp riêng ngón cái chui qua một đường hầm mà phía sau là khối xương cổ tay, phía trước là một vòng xơ. Bao bọc hai gân là hai bao hoạt dịch, nằm ở chính giữa đường hầm là dây thần kinh giữa. Khi đường hầm bị viêm sẽ chèn ép dây thần kinh giữa gây ra hội chứng đường hầm cổ tay rất giống với những dấu hiệu chèn ép rễ thần kinh ở lỗ tiếp hợp cột sống cổ, hay dấu hiệu chèn ép bó mạch thần kinh trong hội chứng cơ bậc thang trước.

– Triệu chứng: dị cảm (tê bì như kim châm), đau bỏng buốt, hạn chế vận động và rối loạn dinh dưỡng ở bàn tay và các ngón tay trong khu vực chi phối của thần kinh giữa (tê và đau buốt ở đầu các ngón tay 1,2,3. Tê và đau gan bàn tay, tăng lên về đêm). Có thể thấy vùng cổ tay hơi sưng, nhưng ít gặp. Cảm giác nông các ngón tay 1,2,3 giảm rõ.

Một số nghiệm pháp chẩn đoán:

+ Duỗi bàn tay hết cỡ, dùng búa phản xạ gõ vào cổ tay thấy tê và đau các ngón 1,2,3.

+ Dùng dây garo quấn phía trên cổ tay, sau thời gian ngắn thấy đau và tê các ngón tay 1,2,3.

– Nguyên nhân: viêm khớp dạng thấp (thường thấy cả hai bên), chấn thương vùng cổ tay, một số nghề nghiệp phải sử dụng nhiều cổ tay (như ép, vặn, quay…), một số có nguyên nhân không rõ. 

4.4. Hội chứng ngón tay lò xo (ngón tay bật).

– Gân gấp các ngón tay đi từ bàn tay vào ngón thường chui qua các vòng dây chằng để cố định đường đi. Khi các dây chằng này bị viêm hay gân gấp bị viêm nổi cục thì di động của gân gấp bị cản trở, làm khó duỗi ngón tay, lúc đầu phải cố gắng mới bật ra được giống như lò xo, về sau không tự bật ra được mà phải cần có trợ giúp.

4.5. Viêm gân bánh chè.

Nguyên nhân: Hoạt động thể thao là nguyên nhân chính gây viêm gân, do các lý do sau:

  • Thường xuyên phải luyện tập các bài tập nặng, gân phải  hoạt động liên tục, lặp đi lặp lại của một động tác đó là yếu tố khởi động quá trình viêm gân. Sự co gân mạnh có thể sau những động tác đột ngột như một cú sút bóng, bay bắt bóng… hay hoạt động cố gắng quá trong thi đấu : dừng lại đột ngột, hay những cú nhẩy,…
  • Đôi khi là do chấn thương trực tiếp, đặc biệt là ở gân bánh chè, ở bàn chân, đầu gối, ….
  • Rất hiếm gặp các bệnh lý do trượt của gân trên tổ chức khác: như cân đùi   trượt ở trên bề mặt lồi và đầu dưới xương đùi.

Viêm gân  gây nên đứt các bó gân nhỏ ở trong gân (đứt một phần) nên  thường làm cho gân sưng tại chỗ. Tiến triển của thương tổn dẫn tới liền sẹo trong nhiều tháng, nhưng không cần thiết phải cho gân nghỉ hoàn toàn để chờ nó liền sẹo.

Dấu hiệu lâm sàng chính là đau. Đau nằm ở vị trí trước gối nơi gân bị viêm, nó có đặc điểm sau:

  • Ngày càng tăng dần, âm ỉ hiếm khi là đau kinh khủng
  • Đau tập trung
  • Đau có tính chất chu kỳ, đi từ đau liên tục, sau đó đến đau mạnh, giảm dần rồi lại tăng lên.
  • Tiến triển của nó có thể nhiều tháng. Viêm gân có thể tiến triển theo hướng khỏi tự nhiên, hoặc trở thành mãn tính .Có những trường hợp đứt gân do viêm là những biến chứng tuy hiếm nhưng rất nặng: có thể gặp đứt gân bánh chè hay đứt gân cơ tứ đầu. Triệu chứng khi đó biểu hiện bằng đau tăng đột ngột sau một cú nhảy, …đồng thời mất hoàn toàn chức năng vận động của cơ.

Chẩn đoán được đưa ra khi:

-Có dấu hiệu đau như mô tả

-Khám lâm sàng có những điểm đau rất rõ nét ở gân bánh chè, xung quanh các điểm bám của gân ở bánh chè

-Xét nghiệm :

  • Chụp phim thấy  gân dầy lên , có thể có điểm vôi hoá,…
  • Siêu âm nhìn thấy điểm vôi hoá
  • Chụp IRM (cộng hưởng từ) thấy dấu hiệu viêm gân.

Chụp cộng hưởng từ là một thăm khám có giá trị trong chẩn đoán các bệnh về gân. Bên đây là hình ảnh MRI chụp nghiêng của gối, thương tổn ở gân bánh chè  tại chỗ bám của nó được phát hiện ra

Viêm gân

4.6. Viêm gân cơ tứ đầu đùi.

Gân này là sự hội tụ của 4 gân cơ ở mặt trước đùi nằm ở 3 bình diện khác nhau. Gân viêm gặp trong các vận động viên thể thao có hoạt động thể lực mạnh, bị đẩy mạnh, chèn gấp đột ngột: nhảy xà, đấu vật, bóng chuyền, bóng rổ, trượt patin,…Thương tổn thường  nằm ở nông của gân cơ thẳng đùi, gân cơ rộng ngoài và cơ rộng trong.

Lâm sàng:

  • Yếu tố khởi phát bệnh bao giờ cũng là dừng lại đột ngột, tiếp đất của nhẩy cao,  gây kéo dãn gân cơ tứ đầu.

  • Đau xuất hiện từ từ tăng dần. Khởi đầu là đau mạnh thường thấy ở những người khoẻ mạnh, hay sau chấn thương mạnh.
  • Giống như trong gân bánh chè, cường độ có thể khác nhau.
  • Thăm khám lâm sàng tìm thấy có dấu hiệu đau khi cơ co kéo mạnh. Đau cũng còn xuất hiện khi co cơ tĩnh, hay đứng bằng 1 chân.
  • Sờ tìm thấy một điểm đau rõ ràng, có thể đẩy xương bánh chè di động cũng tìm thấy đau rõ hơn. Điểm đau thường ở nông ở giữa, hơi cao hơn bờ dưới của bánh chè một chút. Nó có thể ở cả các bó xơ quây quanh bánh chè. Ở bên ngoài, cũng đau ở phía trên của cực dưới bánh chè. Rất hiếm  sờ thấy chỗ lõm do đứt một phần gân bánh chè.

Cận lâm sàng:

  • Chụp phim thường thẳng nghiêng, trên phim nghiêng nhìn thấy gân dầy lên và vôi hoá ở chỗ bám tận. Nó có thể ở dạng gai, đôi khi dạng mảnh nhỏ.
  • Siêu âm không phải dễ vì nó nằm ở vùng xương.  Tìm thấy vùng giảm âm  phù hợp với chỗ đứt bán phần của gân, hay nhìn  thấy túi hoạt dịch, hoặc vùng sẹo
  • MRI có giá trị, đặc biệt trong những trường hợp nghi ngờ trước mổ.

4.7. Viêm gân gót Achille.

– Triệu chứng: sưng đau vùng gót chân, gân gót sưng rõ, sờ có thể thấy nổi cục, ấn vào đau, làm động tác gấp duỗi bàn chân có lực cản thì đau tăng.

– Nguyên nhân: có thể do bệnh toàn thân như viêm khớp dạng thấp, phần lớn là do vận động quá mức bàn chân.

5. Điều trị viêm gân nói chung.

Nghỉ ngơi

Nghỉ hoàn toàn ít khi được chỉ định. Thực tế, nó có hại hơn là có lợi. Đây là yếu tố thuận lợi cho teo cơ và giảm khả năng phục hồi vận động.

Người ta hay làm là cho bệnh nhân nghỉ cách quãng, trong những giai đoạn đau cấp tính, để giảm gánh nặng cho gối phải dùng nạng, và sử dụng nẹp gối có khớp động.

Điều trị thuốc

Điều trị thuốc chống viêm, không steroides, có tác dụng trong viêm gân.

Nó cần chỉ định trong thì cấp tính của bệnh, ngược lại trong thời kỳ mãn tính rất ít tác dụng. Nó có thể dùng dưới dạng viên, gel, kem bôi,…

Điều trị chích thuốc nhiều nốt nhỏ (mésothérapie) ít  hiệu quả hơn so với  trong điều trị  gân Achille. Người ta dùng  phối hợp các chống viêm, dãn mạch và gây tê. Phần lớn đưa lại kết quả tốt.

Tiêm tại chỗ

Phương pháp còn đang tranh cãi. Phần lớn đều cho rằng là hạn chế, cần phải tiêm thuốc ở bên ngoài gân và nghỉ chơi thể thao hoàn toàn trong thời gian điều trị.

Vật lý trị liệu

Lý liệu pháp có nhiều các kỹ thuật khác nhau: siêu âm, sóng ngắn, laser,..

Xoa bóp theo chiều sâu của cơ: sử dụng các động tác bằng tay bóp mạnh có tác dụng vào sâu trong cơ, gân. Cũng như vậy người ta dùng các dụng cụ để thay cho tay tác động vào cơ, với mục đích xoa bóp rộng và chính xác vùng đau của bệnh nhân.

Máy kích thích điện có thể dùng với mục đích làm tăng thêm sức mạnh cho cơ, và có tác dụng lưu thông mạch máu.

Ngoài ra, các phương pháp cổ điển như kéo dãn bề mặt sau, trước cơ, với kỹ thuật co cơ, dãn cơ, đây là phương pháp do nhóm  STANISH nghĩ ra, bài tập là chu kỳ khép kín.

Có ba định hướng cho phương pháp điều trị:

  • Tăng độ dài và kéo dãn cơ, gân bằng phương pháp kéo dãn.

  • Tăng cường một cách từ từ sức mạnh cho gân cơ.

  • Làm việc tốc độ của sự co cơ để tăng cường độ bền của các tổ chức đệm gân.

Giai đoạn đầu chỉ định cho các bài tập ở trạng thái tĩnh, có nghĩa là các cơ không thay đổi vị trí, chỉ làm như sau: bệnh nhân gối và bàn chân để thẳng, cột sống lúc đầu thẳng sau đó gấp người lại  ở 30 độ, rồi lại duỗi thẳng lưng. Động tác này làm từ 15 đến 30 lần và nhắc lại 3 đến 5 lần trong một ngày. Mỗi ngày phải tăng dần biên độ gấp lên từ 45 đến 60 độ. Bài tập này có thể tiến hành đơn thuần trong tuần thứ nhất đến tuần thứ hai, tuỳ thuộc vào mức độ đau. Nếu đau nhiều có thể giảm nhẹ bớt bài tập, hay cho phép bệnh nhân dùng tay đỡ khi ngồi trở dậy.

Giai đoạn hai, bắt đầu từ tuần thứ 3. Bao gồm các bài tập có tính chất định hướng xa, cụ thể như sau: Là những động tác tập gối động gấp khớp từ 10 đến 45  độ, rồi ngả người từ từ cho  nằm xuống sao cho không ngã. Bài tập này làm  3 lần , mỗi lần 10 động tác như vậy. Lúc đầu có thể gấp  từ từ sau đó gấp tăng hơn cho đến ngày 6 và thứ 7 đạt tốc độ nhanh.

Tất cả các bài trước khi tiến hành phải  khởi động tốt, xoa bóp và kéo dài cơ duỗi. Cũng phải tập kéo dài cơ nhắc lại và trườm đá cho gân đau sau mỗi buổi tập.

Liệu trình điều trị kéo dài 4 đến 6 tuần, tuỳ thuộc vào mức độ nặng của viêm gân. Các môn thể thao không chấn thương (như bơi hay xe đạp quay) có thể chỉ định cho bệnh nhân vào tuần thứ 2, với điều kiện phải được khởi động kỹ trước khi tập, kéo dài cơ và trườm đá sau mỗi bài tập.

Trong những trường hợp bệnh nhân đau kéo dài, mặc dù điều trị nội khoa đúng phương pháp, có thể chỉ định ngoại khoa.

Ngoại khoa

Nếu gân bị dính gây cản trở vận động có thể phải can thiệp phẫu thuật giải phóng dính (hội chứng đường hầm cổ tay, ngón tay lò xo).

(Lưu ý: Việc đáp ứng với các liệu trình điều trị, máy, thiết bị trợ giúp là khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người !
Những thông tin y học trên website chỉ mang tính tham khảo, bạn không được tự ý áp dụng nếu chưa được sự chỉ dẫn của thầy thuốc !)

-5%
10.990.000
Mua
-9%
Bán chạy

Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng

[Wonder MF508N] Máy vật lý trị liệu Wonder MF5-08N (New)

3.290.000
-6%

Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới

[MPT8-12] Máy vật lý trị liệu đa năng MPT8-12

3.490.000
Mua
BH 20 năm
Mua
DMCA.com Protection Status