Kết quả của thay khớp gối
Chất lượng của khớp gối nhân tạo toàn bộ cũng như khớp gối bán phần, ngày càng được cải thiện kể từ khi bắt đầu áp dụng cách đây 20 năm nay, là do sự hiểu biết về sinh lý của khớp gối ngày càng tốt hơn. Kết quả của khớp gối nhân tạo ngày nay đã ngang bằng và vượt khớp háng.
Kết quả về chức năng:
Đạt chức năng tuyệt vời trong 90% các trường hợp được mổ : Nó không còn đau, lấy lại khả năng sử dụng khớp gối, đặc biệt là đi lại được.
-Mục đích đầu tiên của thay khớp gối là giảm đau, đó chính là lý do mà bệnh nhân quyết định mổ. Trong 60% các trường hợp được mổ hết đau hoàn toàn, 30% còn lại đau có tính chất chu kỳ, thường thay đổi theo mùa, có thể chịu được không cần phải dùng bất cứ loại thuốc giảm đau nào. Cuối cùng còn 10% trong số các trường hợp là còn đau và phải dùng thuốc giảm đau, mặc dù không có một bất thường nào ở khớp .
Khi thay khớp gối ổn định, nó cho phép vận động gối tốt, các tài liệu chỉ ra việc gấp gối có thể đạt trung bình tới 120°, chỉ số này còn cao hơn trong thay khớp gối bán phần.
Giảm đau đồng thời lấy lại được vận động cho phép bệnh nhân đi lại được bình thường, không cần nạng, không hạn chế về khoảng cách, và có thể lên xuống cầu thang. Như thế đã đem lại cuộc sống bình thường cho người bệnh, đôi khi đem lại cho người bệnh khả năng chơi và hoạt động thể thao: bơi, đi xe đạp, chơi golf… Nhưng việc thay khớp gối không phải vì mục đích chơi thể thao, việc đó còn đang chờ đợi một khớp gối mới trong tương lai.
Kết quả chức năng không đạt (10%), có thể là do sau những biến chứng xẩy ra, hoặc cũng có trường hợp không có biến chứng nào cả, cũng có thể do đau dai dẳng gây hạn chế vận động. Khi khớp gối gấp dưới 90° được coi như hạn chế vận động.
Kết quả lâu dài thì sao ? có thể nói cách khác, thời gian tồn tại của khớp nhân tạo được bao lâu ?
Với thu thập số liệu chừng 20 năm, với thay khớp gối bán phần và toàn bộ với mâm chày di động, chúng tôi khẳng định tuổi thọ của khớp có thể kéo dài hơn nữa. Nguy cơ gây hỏng khớp nhân tạo là do sự mất cân đối về trọng lượng của bệnh nhân, chủ yếu là quá nặng. Khớp bị hỏng được thể hiện dưới hai hình thức:
Mòn khớp
Lỏng xi măng, có nghĩa là có sự di động giữa cán khớp nhân tạo và xương. Trong các nghiên cứu về thời gian tồn tại « survie actuarielle ») chỉ ra cho tới 10 năm vẫn còn từ 80% đến 90 % khớp nằm nguyên vị trí. Tất cả các khớp sau khoảng 20 năm không còn giữ được chắc, nhưng không phải thay lại tất mà phải theo dõi và chỉ thay lại khi có điều kiện kỹ thuật tốt nhất
Biến chứng của khớp gối nhân tạo
Tất cả các can thiệp phẫu thuật gối đều cần tính tới nguy cơ biến chứng. Thậm chí cả những biến chứng không phải là đặc trưng cho loại phẫu thuật này : biến chứng gây mê, biến chứng do tuổi già, và biến chứng do các bệnh phối hợp… Cần phải làm khám nghiệm tổng thể trước mổ để biết và đánh giá các nguy cơ này nhằm hạn chế nhiều nhất khả năng xấu có thể xảy ra.
Chúng tôi chỉ kể ra các biến chứng liên quan tới phẫu thuật này. Nó có thể đến sớm trong quá trình mổ, có thể đến sau một vài ngày sau mổ, cũng có thể muộn hơn nữa một vài tháng hay một vài năm.
Các biến chứng trong phẫu thuật
Nó rất hiếm, ví dụ như thương tổn động mạch ở chi dưới (động mạch khoeo) hay thần kinh (đặc biệt là thần kinh mác bên) với những trường hợp mổ khó.
Cũng có thể gẫy xương đùi, xương chày, hay bong chỗ bám của hệ thống gân duỗi (gân bánh chè) hay đứt gân cơ tứ đầu,…
Biến chứng sớm
– Trội hơn cả là nhiễm trùng. Nhiễm trùng là nguy cơ của tất cả các phẫu thuật. Ở gối biến chứng nhiễm trùng càng nặng hơn, nhưng cũng nhấn mạnh rằng biến chứng này rất hiếm gặp. Theo dõi để phát hiện sớm nhiễm trùng, xảy ra sau phẫu thuật vài tuần đầu, thấy xuất hiện dấu hiệu đau, sốt , gối sưng to, chảy dịch ở vết mổ,… . Cần phải cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để điều trị kháng sinh cho phù hợp, không phải chỉ có thế là khỏi bệnh, cần phải theo dõi diễn biến nhiễm trùng, thực tế phải mở lại gối để rửa sạch. Với biện pháp điều trị tích cực như trên thông thường sẽ khỏi được nhiễm trùng.
– Các biến chứng khác :
+ Tắc mạch : Là hình thành các cục máu đông ở trong tĩnh mạch, nó có thể giải quyết được bằng điều trị chống đông dự phòng. Biến chứng này có thể đưa lại những nguy cơ rất nặng: nhồi máu phổi.
+ Máu tụ trong gối: điều trị chống đông là cần thiết tuy nhiên đó lại là điều kiện thuận lợi cho biến chứng máu tụ trong gối. Cần phải mổ lại để lấy khối máu tụ này .
+ Hội chứng thiểu dưỡng thần kinh cơ (syndrome neuro-algo-dystrophique) rất hiếm xảy ra: nó có đặc tính làm cứng gối sớm, phối hợp với đau và phù nề. Cần phải điều trị bằng thuốc tương đối lâu .
+ Cứng gối: Cứng khớp gối có thể thấy sau những can thiệp vào khớp gối, đặc biệt sau khi thay khớp, nguyên nhân là do dính trong khớp, là sự tổ hợp của nhiều yếu tố: đau sau phẫu thuật gây khó khăn trong luyện tập, phản viêm mạnh ở khớp gối, sau biến chứng máu tụ trong khớp,…Vận động cưỡng bức khớp gối ” bẻ khớp” dưới gây mê toàn thân cải thiện đáng kể biên độ vận động cũng như giảm đau cho bệnh nhân. Đây là một thao tác nhỏ, chỉ cần gấp chân của bệnh nhân đủ để làm đứt các thành phần dính ở trong khớp. Chỉ định này nên làm sớm sau phẫu thuật, không nên để quá lâu, các dây chằng dính chặt lại sẽ rất khó thực hiện.
Biến chứng thì hai (thứ phát)
Biểu hiện bằng tình trạng nhiễm trùng gối muộn , tình trạng cứng khớp hay các biến chứng cơ học của khớp nhân tạo
– Nhiễm trùng muộn hiếm gặp, nguyên nhân là do sự di nhập của các vi khuẩn từ nơi khác tới ( Abces răng, nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm khuẩn ruột,…) Điều này có nghĩa là cần phải điều trị nghiêm túc với tất cả các nhiễm trùng ở trên người bệnh có mang khớp nhân tạo. Khi khám bệnh với bác sĩ nội khoa cần trình bày rõ là mình đã được thay khớp. Điều trị loại nhiễm khuẩn muộn này thông thường là phải thay lại khớp mới. Trong trường hợp thất bại khi thay lại, chỉ còn cách làm cứng khớp.
– Cứng khớp Sau mổ thời gian dài không được phát hiện để “bẻ ” khớp dưới gây mê toàn thân, khớp gối trở nên rất cứng, gây hạn chế chức năng nhiều. Khi này cần phải chỉ định mổ để gỡ dính gối (can thiệp này nhằm cắt bỏ các thành phần dính trong gối )
– Các biến chứng cơ học gây ra do khớp nhân tạo, đôi khi phải thay lại khớp mới.
– Không vững có thể xảy ra ở khớp gối với mâm chày di động, hệ thống dây chằng bị trùng trong khi chất lượng còn tốt, biểu hiện: không vững bánh chè có khi bị trật ra ngoài, không vững giữa xương đùi và xương chày.
– Mòn khớp. Đây là một nguy cơ không mong muốn của tất cả các loại khớp nhân tạo. Sử dụng khớp với mâm chày di động sẽ giảm được nguy cơ này. Nguy cơ của biến chứng này làm giảm tuổi thọ của khớp rất nhiều.
– Lỏng xi măng xuất hiện các vận động bất thường giữa khớp nhân tạo và xương ở vị trí tiếp xúc nhau, đó cũng là nguyên nhân gây đau. Biến chứng này chỉ xảy ra với các khớp có dùng xi măng, còn với khớp không dùng xi măng thì xương sẽ cắn chặt vào bề mặt bên ngoài của khớp.
– Gẫy xương chấn thương có thể là nguyên nhân của gẫy xương đùi, xương chày, hay bánh chè, tiếp xúc trực tiếp với khớp thay thế, cũng có khi vỡ cả khớp nhân tạo. Đôi khi không do chấn thương , khớp vẫn tự vỡ do “mệt mỏi” của kim loại (fractures « de fatigue»).
Liệt kê các biến chứng trên đây giúp ta khỏi quên các biến chứng của phẫu thuật thay khớp gối (cho dù ít gặp)
Nguồn Genou.com/vietnam
- 1
- 2
(Lưu ý: Việc đáp ứng với các liệu trình điều trị, máy, thiết bị trợ giúp là khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người !
Những thông tin y học trên website chỉ mang tính tham khảo, bạn không được tự ý áp dụng nếu chưa được sự chỉ dẫn của thầy thuốc !)