Bệnh loãng xương
Loãng xương và xốp xương hoặc gẫy xương do ròn là một bệnh dịch ở Châu Âu, Bắc Mỹ và trở thành một vấn đề y tế lớn.
Sự mất xương xảy ra từ quanh tuổi 40 có thể dẫn tới loãng xương. Bệnh loãng xương có thể định nghĩa là sự mất xương bình thường đến mức mà chấn thương nhẹ cũng gây ra gẫy xương. Đồng thời với sự mất xương, có sự biến đổi trong cấu trúc cả xương vỏ lẫn xương lưới.
Xương vỏ lõi trong mất đi rõ rệt trong khi màng ngoài vẫn còn tăng ít nhiều. Do đó làm cho vỏ mỏng hơn mà cũng tăng đường kính. Như vậy sự mất sức rắn chắc cơ học thì nhỏ hơn sự mất mô xương. (Hình 4.5). Đây cũng là trường hợp con người trước thời công nghiệp khi sinh hoạt hàng ngày thường lao động thể lực. Ở phụ nữ nước Mỹ hiện đại, sự tăng đường kính của các xương dài đang còn là điều bàn cãi. Thế mà dường như sự tái tạo xương của xương vỏ có lợi về mặt cơ học lại phụ thuộc vào tải.
Hình 4.5. Sự tái tạo xương lưới (bè) và vỏ (đặc) trong cuộc đời.
(a) Trong xương lưới, bè mỏng hơn đi và cũng xảy ra sự mất bè nhất là các thớ bè không song song với trục chịu tải chính. (b) Xương vỏ thỉ ống tủy rộng ra, song đường kính ngoài của xương cũng to ra, như vậy bảo toàn được sức bền vững cơ học hơn là xương lưới.
Xương lưới vượt trội về sự mất của các bè xương ngang (ngang so với hướng chính mà tải nén lên), trong khi các bè dọc theo hướng chịu tải cơ học được bào tồn nhiều hơn (Hình 4.4).
Sự mất thuần túy về sức vững chắc cơ học ở xương lưới thì lớn hơn. Do đó, tính ròn hoặc các chỗ gẫy do loãng xương thường hay gặp nhất ở các vùng hành xương ví dụ xương quay ra, xương đùi gần, xương cánh tay gần, cổ chân và xương sống, cổ của xương đùi, theo mô hình này mặc dầu có thể coi nó như cấu trúc vỏ (Hình 4.6).
Hình 4.6. Các vị trí gẫy xương do ròn xương (loãng xương): xương sống (a) và các chỗ tận cùng (hành xương) của xương dài (b) thường hay bị ảnh hưởng nhất. (a) gẫy do ép xương sống gây ra đau lưng liên tục (cấp tính) hoặc gián đoạn (mạn tính) từ giữa ngực đến giữa thắt lưng (có khi đến dưới thắt lưng). Cũng hay gẫy xương sườn (b). Những chỗ gẫy ở xương dài hay xảy ra do chấn thương tối thiểu (c). Xẹp ngực tiến triển làm mất chiều cao và lồi bụng.
Vẽ theo phép của CIBA-Geigy.
Các trường hợp gẫy xương đó xảy ra ở giới hạn trên của tuổi tác, bắt đầu lúc khoảng 50 tuổi và tăng lên theo lũy thừa với tuổi. Điển hình là các gẫy xương gặp khi có chấn thương với một lực nhẹ và ở trong nhà, ví dụ gẫy xương cánh tay gần và háng. Một số các gẫy xương như vậy thường gặp ở các đối tượng hoạt động nhiều hơn và hay gặp ở ngpài nhà, như gẫy xương quay xa và xương cổ chân. Hay gặp nhất là gẫy xương sống, thấy ở 25% nữ và 12% nam nguồn gốc xứ Caucase ở tuổi 70.
Tỷ lệ các loại gẫy xương này trong mấy chục năm gần đây tăng cao và không giải thích được bằng tuổi tác hoặc giới tính. Một trong những yếu tố cơ bản là thiếu hoạt động thể lực như y văn bàn cãi.
Dân cư gốc Scandinave có tỷ lệ gẫy xương cao do ròn xương trong khi người da đen ít bị loãng xương và gẫy xương theo kiểu này.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
Vấn đề dự phòng quan trọng là liệu điểm đỉnh về khối lượng xương cao hơn có làm cho bộ xương được bảo toàn tốt hơn ở giới hạn trên của tuổi tác và do đó ít gẫy xương vì ròn xương hay không.
Hoạt động thể lực là một nhân tố tích cực để phục hồi xương và có thể sửa những biến đổi sinh học cơ bản của xương do giới tính, tuổi tác và các yếu tố chủng tộc và lối sống quy định.
Các phương pháp đo lường khoáng chất trong xương
Có thể đo in vivo hàm lượng chất khoáng trong xương. Cách chụp X quang thông thường có thể đánh giá được, nhưng sự mất chất khoáng phải vượt quá 30% mới phát hiện được. Các phương pháp khác bao gồm phép đo hấp thụ photon, ở đây các năng lượng đơn năng (photon) từ nhiều đồng vị phóng xạ khác nhau được sử dụng. Ngày nay, các phương pháp này rất thích hợp. Cũng có thể sử dụng kỹ thuật phân bổ năng lượng X quang liên tục hoặc chụp cắt lớp có lắp kèm máy tính.
Originally posted 2011-12-13 08:52:55.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !