Điều trị phòng ngừa
Việc sử dụng thuốc phòng ngừa migraine cho migraine chuyển dạng được ủng hộ chủ yếu bởi các nghiên cứu mở . Ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, các nghiên cứu có đối chứng sẵn có thì nhỏ, cho kết quả khiêm tốn, không tính đến lạm dụng thuốc cấp tính hay thuốc phòng ngừa kèm theo như là yếu tố gây nhiễu quan trọng, hoặc không có chẩn đoán đặc hiệu đối với bệnh nhân đau đầu hàng ngày mạn tính. Mặc dù có những hạn chế này, cho tới khi có những nghiên cứu có đối chứng giả dược, những biện pháp phòng ngừa và những thuốc phòng ngừa quy ước khác cho migraine tiếp tục được sử dụng cho migraine chuyển dạng.
Mục tiêu của phòng ngừa đau đầu là giảm tần suất đau đầu xuống 50%. Các thuốc phòng ngừa nên được bắt đầu ở liều thấp và tăng dần cho tới khi đạt được hiệu quả điều trị, có tác dụng phụ, hoặc đạt liều tối đa. Một thuốc phòng ngừa nên được kéo dài khoảng hai tháng ở liều tối đa có thể dung nạp đựơc trước khi xác định thuốc có hiệu quả hay không. Nếu phòng ngừa ban đầu không có tác dụng, thì giảm dần liều và thử phòng ngừa với một loại thuốc nhóm khác. Mặc dù đơn trị liệu được ưa chuộng hơn nhưng đôi khi sự kết hợp các thuốc phòng ngừa cũng cần thiết. Nếu thuốc phòng ngừa có hiệu quả, có thể giảm liều sau vài tháng, vì nhiều bệnh nhân nhận thấy là đau đầu tiếp tục giảm sau khi không còn dùng thuốc phòng ngừa hoặc không cần dùng liều cao như ban đầu.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng Mặc dù có bằng chứng nhóm I ủng hộ tác dụng phòng ngừa của amitriptyline trong đau đầu căng cơ mạn tính, bằng chứng cho việc sử dụng amitriptyline trong migraine chuyển dạng hoặc đau đầu hàng ngày mạn tính, có hoặc không lạm dụng thuốc thì kém rõ ràng. Một vài nghiên cứu mở ủng hộ việc sử dụng amitriptyline trong điều trị phòng ngừa của đau đầu hàng ngày mạn tính có lạm dụng thuốc. Liều trong các nghiên cứu trong khoảng từ 10-75 mg/ngày.
Một phác đồ phổ biến sử dụng amitriptyline là bắt đầu uống 25 mg vào buổi tối và sau đó tăng lên 25 mg mỗi tuần cho đến liều mục tiêu là 1 mg/kg vào buổi tối.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng phối hợp thuốc chẹn beta: Trong 1 nghiên cứu mở trên 36 bệnh nhân đau đầu hỗn hợp (migraine và đau đầu căng cơ), propranolol (120- 160 mg/ngày) phối hợp amitriptyline (50-75 mg/ngày) được báo cáo là có lợi trong giảm chỉ số đau đầu. Trong nghiên cứu này, kết hợp thuốc có kết quả tốt hơn sử dụng đơn độc một loại thuốc.
Bảng 8 Điều trị phòng ngừa Migraine chuyển dạng | ||
Thuốc | Liều | Nhóm bằng chứng |
Amitriptyline | 10-75 mg/ngày | III |
Fluoxetine | 20-40 mg/ngày | I |
Nefazodone | liều trung bình 300 mg/ngày | III |
Divalproex sodium Valproate sodium | 500-2500 mg/ngày | III |
Gabapentin | 2400 mg/ngày | I |
Topiramate | 50 mg/ngày | I |
Tizanidine | Liều trung bình18 mg/ngày | II |
Botulinum toxin A | 200 U | II |
Trong 1 nghiên cứu mở khác ở 61 bệnh nhân với đau đầu kết hợp có hoặc không lạm dụng thuốc báo cáo hiệu quả của thuốc chống trầm cảm 3 vòng (amitriptyline-N-oxide, 60-120 mg/ngày hoặc amitriptyline, 75-150 mg/ngày) phối hợp beta-blocker (propranolol, 80-160 mg/ngày hoặc metoprolol, 100-200 mg/ngày). Sau 3 tháng, tần số đau đầu giảm với điều trị kết hợp này.
Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRIs)
Một nghiên cứu có kiểm chứng, giả dược mù đôi đánh giá tác dụng của fluoxetine trong điều trị phòng ngừa trong 64 bệnh nhân với đau đầu hàng ngày mạn tính không có lạm dụng thuốc. 90% bệnh nhân điều trị fluoxetine với liều 40 mg/ngày, trong khi 10% bệnh nhân điều trị với liều 20 mg/ngày. Những hiệu quả có ý nghĩa thống kê của fluoxetine được nhận thấy ở tình trạng đau đầu chung và những ngày không đau đầu. Hiệu quả điều trị có ý nghĩa thống kê chỉ xuất hiện ở tháng thứ 3 sử dụng fluoxetine. Một nghiên cứu khác không cho thấy bất cứ lợi ích rõ rệt nào từ sự kết hợp giữa amitriptylin và fluoxetin hơn là dùng amytriptyline đơn độc trong điều trị migraine chuyển dạng có lạm dụng thuốc.
Một nghiên cứu mở trên 60 bệnh nhân báo cáo hiệu quả của paroxetin (10-50 mg/ngày) trong điều trị phòng ngừa đau đầu hàng ngày mạn tính. Tất cả bệnh nhân đều bị “rối loạn hỗn hợp migraine/đau đầu căng cơ”, và 92% bệnh nhân được báo cáo là giảm tần số đau đầu với paroxetin.
Nefazodone Một nghiên cứu mở trên 52 bệnh nhân báo cáo hiệu quả của nefazodone (100-450 mg/ngày) trong điều trị phòng ngừa của đau đầu hàng ngày mạn tính không có lạm dụng thuốc. Nefazodone được bắt đầu liều 50 mg vào buổi tối, và sau đó tăng lên mỗi 50 mg mỗi 5 ngày đến mục tiêu ban đầu là 150 mg 2lần/ngày. Trong suốt tuần cuối bệnh nhân được phép điều chỉnh liều đến liều tối đa là 450 mg/ngày nếu thuốc được dung nạp. Liều trung bình là 300 mg/ngày. Sự cải thiện có ý nghĩa được thể hiện ở tất cả các thông số đau đầu qua nhật ký đau đầu.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Thiết bị điều trị nhiệt
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Thiết bị điều trị nhiệt
Phenelzine Một nghiên cứu mở trên 11 bệnh nhân báo cáo hiệu quả của phenelzine (30-60 mg/ngày) trong điều trị phòng ngừa đau đầu hàng ngày mạn tính. Liều bắt đầu là 15 mg/ngày và chỉnh liều trong 10 ngày. Tất cả bệnh nhân đều bị “rối loạn hỗn hợp migraine/đau đầu căng cơ”, và 91% bệnh nhân báo cáo là giảm tần số đau đầu với phenelzine.
Divalproex sodium, valproate sodium Một vài nghiên cứu mở ủng hộ việc sử dụng divalproex sodium hoặc valproate sodium trong điều trị phòng ngừa migraine chuyển dạng có hoặc không lạm dụng thuốc cũng như đau đầu hàng ngày mạn tính có hoặc không lạm dụng thuốc. Liều trong các nghiên cứu này trong khoảng 500-2500 mg/ngày.
Phác đồ điều trị phòng ngừa phổ biến là bắt đầu divalproex sodium công thức phóng thích kéo dài 500 mg/ngày và tăng trong 1 tuần đến 1000 mg/ngày.
Gabapentin Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, đánh giá hiệu quả của gabapentin trong điều trị phòng ngừa ở 133 bệnh nhân CDH có hoặc không có lạm dụng thuốc. 64% bệnh nhân bị phối hợp migraine và đau đầu căng cơ (“đau đầu hỗn hợp”). 25% bệnh nhân lạm dụng thuốc giảm đau. Gabapentin được tăng dần liều trong 2 tuần cho tới liều mục tiêu là 2400mg/ngày. Kết quả ghi nhận tăng có ý nghĩa thống kê số ngày không đau đầu khi dùng gabapentin.
Topiramate Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, đánh giá hiệu quả của topiramate trong điều trị phòng ngừa ở 28 bệnh nhân migraine chuyển dạng có lạm dụng thuốc. Topiramate được tăng dần mỗi 25 mg trong 1 tuần cho tới liều 50 mg một ngày. Bệnh nhân được yêu cầu giảm sử dụng thuốc giảm đau trong suốt thời gian thử nghiệm và không được uống thuốc giảm đau hơn 1 lần/1 ngày. Tần số đau đầu giảm đi có ý nghĩa thống kê khi dùng topiramate. Không có bệnh nhân nào có khả năng ngưng dùng thuốc giảm đau hoàn toàn.
Nhiều nghiên cứu mở ủng hộ việc sử dụng topiramate trong điều trị phòng ngừa migraine chuyển dạng có hoặc không có lạm dụng thuốc, cũng như đau đầu hàng ngày mạn tính không chuyên biệt. Liều trong những nghiên cứu mở này nằm trong khoảng 25-400 mg/ngày.
Một phác đồ phòng ngừa phổ biến là bắt đầu dùng topiramate 25 mg vào buổi tối, sau đó tăng lên 25 mg mỗi tuần cho tới khi đạt liều mục tiêu là 50 mg hai lần/1 ngày.
Beta-blockers Trong một nghiên cứu mở ở 38 bệnh nhân bị đau đầu hỗn hợp (migraine và đau đầu căng cơ), propanolol (120-160mg/ngày) được báo cáo là hữu ích trong việc giảm số lần đau đầu.
Tizanidine Tizanidine cho thấy mạnh hơn giả dược trong việc giảm chỉ số đau đầu chung trong một nghiên cứu mù đôi, có đối chứng giả dược, ngẫu nhiên sử dụng tizanidine như là một liệu pháp phối hợp ở 134 bệnh nhân bi đau đầu hàng ngày mạn tính mà không có lạm dụng thuốc. Hầu hết các bệnh nhân bị migraine mạn tính hoặc chuyển dạng. Tizanidine được tăng dần liều trong 4 tuần cho tới liều 24 mg hoặc liều tối đa có thể dung nạp được, chia đều 3 lần trong ngày. Liều trung bình của tizanidine là 18 mg/ngày. Nghiên cứu này tiêu biểu với bằng chứng nhóm II cho thấy rằng tizanidine là một trong những biện pháp phòng ngừa phối hợp.
Các nghiên cứu mở ủng hộ việc sử dụng phối hợp tizanidine trong điều trị phòng ngừa migraine chuyển dạng có hoặc không lạm dụng thuốc, cũng như là đau đầu hàng ngày mạn tính không đặc hiệu khác. Căn cứ vào các nghiên cứu mở và có đối chứng giả dược, hiệu quả của đơn trị liệu tizanidine thì chưa rõ ràng.
Chế độ sử dụng tizanidine được bắt đầu sử dụng với liều 2 mg vào buổi tối và sau đó tăng lên 2mg mỗi 3-7 ngày cho tới liều tối đa là 8 mg 3 lần mỗi ngày.
Botulinum toxin A Một số nghiên cứu mở cho thấy Botulinum toxin A có thể có hiệu quả trong điều trị phòng ngừa đau đầu hàng ngày mạn tính. Có hai nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi và có đối chứng giả dược đánh giá hiệu quả của Botulinum toxin A trong điều trị phòng ngừa dạng đau đầu này. Một phân tích phân nhóm ở bệnh nhân đau đầu hàng ngày mạn tính không dùng thuốc phòng ngừa khác cũng được báo cáo. Mục tiêu chủ yếu trong các nghiên cứu này là sự thay đổi số ngày không đau đầu sau điều trị. Số ngày không đau đầu tăng trong 2 nghiên cứu với Botulinum toxin, nhưng không có ý nghĩa thống kê; phân tích các phân nhóm bệnh nhân không dùng thuốc phòng ngừa khác cho thấy sự tăng lên có ý nghĩa thống kê số ngày không đau đầu vào ngày 180.
Nguồn Thankinh.org
Originally posted 2010-08-07 11:28:00.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !
- 1
- 2