fbpx
Viện điện tử

Tam thất

Tam-that-cay

Tên tiếng Việt: Tam thất

Tên khoa học: Tên khoa học Panax pseudo-ginseng (Burk) F.H.Chen.

Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae

Công dụng: Chữa thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hôi không sạch, ung thũng, bị đòn tổ thương.

A. Mô tả cây

Tam thất là một loại cỏ nhỏ, sống lâu năm. Lá mọc vòng 3-4 lá một, cuống lá dài 3-6cm, mỗi cuống lá mang từ 3-7 lá chét hình mác dài, mép lá có răng cưa nhỏ, cuống lá chét dài 0,6-1,2cm. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành hoa. Có hoa đơn tính có hoa lưỡng tính cùng tồn tại. Lá đài 5, màu xanh. Cánh hoa 5, màu xanh nhạt. nhị 5, bầu hai hai ngăn. Quả mọng hình thận, khi chỉn có màu đỏ, trong có hai hạt hình cầu

B. Phân bố thu hái và chế biến

Cây tam thất được trồng từ lâu nhưng đối với một lượng ít ở tỉnh Hà Giang (Đồng Văn) Lào Cai (Mường Khương, Bát Xát, Phà Lùng) Cao Bằng…tại các vùng núi cao 1.200-1.500m. Cần chọn những nơi sườn núi ít gió mạnh, phải làm giàn che nắng và phải rào để bảo vệ chuột, sóc hay đến ăn củ. Đất phải được bón phân và chuẩn bị kỹ từ một năm trước, chia thành luống dọc cách nhau 1m. Tháng 10-11 chọn những hạt ở những cây đã mọc 3-4 năm. Gieo ngay vào vườn ươm. Tháng 2-3 năm sau mới mọc. Một năm sau, vào tháng 1-2 có thể đào cây con, cắt bỏ lá gốc, trồng vào ruộng chính thức. sau 3-7 năm mới bắt đầu thu hoạch. Thường cây càng lâu năm rễ củ càng to. Sau khi rửa sạch bùn đất, cắt bỏ rễ con, đem phơi nắng cho hơi héo, đem lăn, vò cho mềm, lại phơi nắng và vò hoặc lăn; làm như vậy từ 3-5 lần mới phơi khô hẳn. Có khi người ta cho vào túi gai lắc cho rễ thành đen bóng là được

Giá trị thu mua căn cứ vào trọng lượng củ. người ta chia ra:

  • Loại 1: 105-130 củ nặng 1kg
  • Loại 2: 160-220 củ nặng 1kg
  • Loại 3: 240-260 củ nặng 1kg

Cây tam thất còn được trồng ở Trung Quốc, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Vân Nam trồng nhiều nhất và tam thất Vân nam được coi là tốt nhất

Tam thất

Củ tam thất

C. Thành phần hoá học

  • Năm 1937-1941 hai tác giả Trung Quốc Tiệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nghiên cứu và lấy được 2 chất từ tam thất: saponin:Arasaponin A và Arasaponin B
  • Arasaponin A (C30H52O10) là một chất bột, dễ tan trong rượu metylic, etylic và amylic hơi tan trong nước, không tan trong ete và axeton, độ chảy 195-210oC, năng suất quay cực +23o, kết hợp với axit axetic cho một chất có tinh thể với công thức C30H45O10(CH3O)7 có độ chảy 256oC. Thuỷ phân bằng axit loãng sẽ cho arasapogenin A C17H30O5, đường và hai chất có tinh thể: một chất có độ chảy 244oC, một chất có độ chảy 252oC
  • Arasaponin B (C22H38O10) cũng là một chất bột dễ tan trong nước và rượu metylic, hơi tan trong rượu etylic và rượu amylic, độ chảy 190-200oC, độ quay cực -8o. Thuỷ phân bằng axit trong dung dịch rượu sẽ cho arasapogenin B C29H32O3 có độ chảy 247oC và đường trong đó có glucoza
  • Năm 1950 Hứa Thực Phương chiết được từ tam thất ba chất saponin: Saponin A C48H50O20 tan trong rượu amylic nóng và một saponin không tan trong rượu amylic nóng. Kết hợp với axit axetic khô kiệt sẽ được một chất có tinh thể C29H50O3(CH3CO) có độ chảy 216 oC.

D. Tác dụng dược lý

Năm 1937, hai tác giả Triệu Thừa Cố và Chu Nhiệm Hoàng đã nhận xét thấy tính chất các saponin trong tam thất không giống các saponin thường: rất ít độc đối với cá: thả cá vàng vào dung dịch 1/1.000 hoặc 1/500 sau 24 giờ không có hiện tượng trúng độc. Tiêm vào chó đánh mê bằng ete, 1-20mg arsaponin A hoặc B không thấy có sự thay đổi rõ rệt đối với huyết áp, với tim và hô hấp. Đối với khúc ruột cô lập của thỏ và tử cung cô lập của chuột bạch không có sự thay đổi

-5%