Căn cứ vào tài liệu nghiên cứu gần đây, Đại hoàng đi đến tác dụng tả hạ chủ yếu là ở trong nó có chứa loại vật chất kết hợp trạng thái “ăng-côn”, kích thích ruột, dẫn đến co bóp thành ruột, tăng thêm phân bế mà phát sinh tác dụng tả hạ thông tiện. Thực nghiệm lại chứng minh Đại hoàng đem sắc quá lâu vật chất loại ăng côn dễ bị phá huỷ làm tác dụng tả hạ cũng dễ giảm đi. Ngoài ra, trong Đại hoàng còn chứa loại vật chất chua chát, chiết xuất được số lớn, lại có tác dụng thu liễm. Bởi vậy, tiền nhân khi luận thuật về cách dùng Đại hoàng có nói: “Sinh giả khí thoát nhi tiên hành, thục giả khí đốn nhi hòa hoãn” là rất đạo lý. Phương này dùng Sinh đại hoàng hậu hạ (cho vào sau), cũng là lấy tả hạ, Tiểu thừa khí thang dùng Sinh đại hoàng cùng sắc cũng là lấy tác dụng hoãn hạ. Ngoài ra phương này lấy Đại hoàng làm chủ dược, trừ việc lấy tác dụng tả hạ ra, còn do Đại hoàng lại có tác dụng tiết nhiệt, tả hạ, giải độc. Gần đây trong thực nghiệm ức khuẩn ngoài cơ thể cũng phát hiện Đại hoàng có thể ức chế rõ rệt đối với Cầu khuẩn bồ đào, khuẩn gậy (can khuẩn), bệnh lỵ, trực khuẩn mủ xanh, song cầu khuẩn phế viêm. Mang tiêu do có chứa thành phần lưu, toan, nạp (lưu huỳnh, axit, natri) đã có tác dụng gây tả. Đến tác dụng hành khí khoan trung của Hậu phác, Chỉ thực cũng đã phát hiện trong thực nghiệm có quan hệ thúc tiến và tăng cường tính tiết tân, động mềm (nhuyễn động) ở đường dạ ruột, đặc biệt rất đáng chú ý là: những năm gần đay phương tễ chữa tắc ruột, cấp tính viêm túi mật, cấp tính viêm tuyến tuỵ, cấp tính viêm ruột thừa thường từ phương này xung hóa phát triển. Lý luận cơ bản của Y học phương đông: “Lục phủ dĩ thông vi dụng”, “Bất thông tắc thống”, “thống tùy lợi giảm” (nghĩa là: lục phủ lấy thông suốt làm đúng tính chất sử dụng của nó, không thông thì đau, đau giảm tùy theo việc đi ỉa ra được), lại một lần nữa được thực tiễn chứng minh. Thông qua thực nghiệm phức phương của phương này, sơ bộ nói rõ phương có tăng thêm nhuyễn động đường ruột và giảm bớt tính thẩm thấu của vi mao huyết quản, đã thúc tiến đảm nang co rút, giãn rộng cơ quản ước miệng túi mật, làm cho nước mật bài tiết nhiều, thêm lợi đởm, làm cho lý luận y học phương Đông về phép dùng hạ pháp tăng thêm luận cứ mới.
– Cách gia giảm thường dùng: Phương này là phương cơ sở của tả hạ tễ. Lấy Đại hoàng làm chủ dược của tễ thông hạ, trên thực chất thường từ phương này xung hóa. Như Lương cách tán, Tăng dịch thừa khí thang, Hoàng long thang, Phòng phong thông thánh tán, đều là căn cứ cụ thể của bệnh tình mà lấy phương này này tiến hành gia giảm. Cận đại phương tễ chữa chứng cấp tính đau bụng (cấp phúc chứng) cũng thường là phát triển của phương này. Có quan hệ tổ thành các phương, cách gia giảm xem rõ ở giải nghĩa của các phương, trong đó chủ yếu lấy Tiểu thừa khí thang và Điều vị thừa khí thang làm so sánh với phương này sơ bộ thấy rõ phương pháp vận dụng gia giảm của phương này.
Tiểu thừa khí thang do 3 vị: Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực tổ thành, so với phương này thì ít đi 1 vị Mang tiêu. Đại hoàng và các vị thuốc khác cùng sắc mà không cho vào sau, nguyên phương lượng dùng Hậu phác và Chỉ thực của tễ lượng tách riêng so với Đại thừa khí thang giảm 3/4 và 2/5, cho nên tác dụng chủ yếu là thanh nhiệt tả hỏa, khoan trung hành khí, còn Đại thừa khí thang thì công trục phân táo, rửa sạch kết nhiệt ở trường vị có chỗ khác nhau. Cho nên “Thương hàn luận” khi bàn về chứng thích ứng của Tiểu thừa khí thang chỉ điều mạnh cái “tiền cách” (vướng ỉa, tức là chỗ giải hạ cái đại tiện cứng rắn), với Đại thừa chứng bế ỉa mất khí cũng cần phân biệt, bởi vì chứng táo kết ở trong ruột so với chứng của Đại thừa khí thang là nhẹ, không cần phải lấy đến Mang tiêu hàm hàn nhuận hạ, làm mềm hóa hòn phân, Đại hoàng cũng không lấy cách sắc hậu hạ để giảm bớt tính tả hạ. Đồng thời tễ lượng của Hậu phác, Chỉ thực cũng giảm ít tương ứng.
Điều vị thừa khí thang dùng 3 vị Đại hoàng, Mang tiêu, Cam thảo chủ yếu nhằm vào 2 loại chứng hậu táo và thực. Lấy tiện bế, bí ỉa, bụng trướng, sợ nóng, miệng khát làm đặc trưng. Cho nên tuy lấy Đại hoàng, Mang tiêu cùng dùng, nhưng không dùng Hậu phác, Chỉ thực mà thêm vào Cam thảo để hòa vị hoãn trung, tác dụng tả hạ tuy mạnh nhưng mà không hại chính khí. Gọi là điều vị thừa khí, tức là trong công hạ có kiêm ý nghĩa hòa trung.
Ba phương Đại thừa khí thang, Tiểu thừa khí thang, Điều vị thừa khí thang cũng là phương tễ chủ yếu trị thực chứng của Dương minh phủ. Nhưng do sự khác nhau của bệnh tình cụ thể, tức là “bĩ, mãn, táo, thực”, gồm 4 loại chứng hậu khác nhau chủ thứ mà có chỗ phân biệt: Tiểu thừa khí thang lấy chứng bĩ, mãn làm chủ; Điều vị thừa khí thang lấy chứng táo thực làm chủ; Đại thừa khí thang đều khắp các chứng bĩ, mãn, táo, thực, cho nên khi tổ thành phương tễ có các cách gia giảm kể trên.
– Phụ phương: Phức phương đại thừa khí thang (Phương kinh nghiệm của Thiên tân Nam khai y viện):
Đại hoàng | 5đc | Đào nhân | 3 đc |
Mang tiêu | 3-5 đc | Xích thược | 5 đc |
Hậu phác | 5 đc – 1 lg | Lai phục tử (sao) | 5 đc – 1lg |
Chỉ sác | 5 đc |
Dùng nhất loạt tính ruột vướng tắc trướng hơi rất rõ rệt (Đại hoàng hậu hạ).
Originally posted 2010-08-10 13:42:15.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !
- 1
- 2